10 "KHUYẾT ĐIỂM" CỦA CHÚA GIÊSU
1 - Chúa Giêsu kém trí
nhớ!
Lúc sắp trút hơi thở,
Chúa Giêsu có cuộc đối thoại cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo trên
thập giá cạnh ngài. Một trong hai người đó thốt lên lời nầy với Chúa Giêsu:
"Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi". Và Chúa
nói với anh ấy: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên đàng" (Lc. 23, 42-43).
Chúa Giêsu không sưu
tra lại lý lịch người đó để nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc
tội nặng, nhẹ để châm chước hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích đáng.
Người gian phi kêu nài Ngài nhớ, thì Ngài "nhớ" một điều là thấy
người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã quên hết, quên
đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các thánh nói: tên nầy
suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên đàng luôn!
Trong Phúc âm chúng ta
gặp lại nhiều chứng tích về việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua
chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng. Thánh sử Luca kể rằng
người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần gia tài của nó, để bỏ
nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Ðến khi tiêu hết tiền, gặp
năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi mong cha già xét tình cha
con mà tha thứ...
Người cha (là hình ảnh
Chúa Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy con đằng xa,
thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch hỏi tội cũ mà
ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho cậu, làm thịt
con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.
"Anh ta còn ở
đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh
ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng: "Thưa cha, con thật đắc
tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa...". Nhưng
người cha liền bảo người giúp việc rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc
cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ
béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!..." (Lc. 15, 20-23).
Chúng ta thấy ở đây
trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều
kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta
quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta
quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên
Chúa.
2 - Chúa Giêsu không
biết làm toán
Trong dụ ngôn con
chiên bị mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa
Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng trống mà
mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại hơn 99 con còn
lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà
còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên
bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!
Trong chương trình rao
giảng của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm,
nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng
người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với
người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4, 1-42).
3 - Chúa Giêsu không
sành luận lý
Chúa Giêsu không
những không cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược
lại sự khôn ngoan bình thường của con người.
"Khi nào ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng
giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái
lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui
mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc... (Lc. 14,
12-14).
Trong dụ ngôn về đồng
bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh
mất 1 đồng: "bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được." - Khi
tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ
phải đến chung vui với mình.
Chúa Giêsu ví mình như
người phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là đủng
đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay; nôn nóng đem
nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ ngơi trong đêm
vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý
luận con của người.
"Giữa triều thần
Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc.
15, 10).
4 - Chúa Giêsu không
biết kinh tế tài chánh
Chúa Giêsu đến để loan
báo Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước
Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời
như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16).
Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11,
mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do
Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).
Chiều tối đó, ông chủ,
là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1
quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ
nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán
và sự công bình thông thường:
"Nầy bạn, tôi đâu
có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền
sao?...Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót
sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót..."
(Mt. 20, 13-16).
5 - Chúa Giêsu làm bạn
với kẻ tội lỗi
Không phải trong xã
hội của người Do Thái vào thời Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội
chúng ta, người ta khó lòng chấp nhận chuyện người "đàng hoàng" lại
giao du với lớp người được đánh giá là không "đàng hoàng".
Thời bấy giờ người
đồng hương với Chúa Giêsu cho rằng hai giới đặc biệt không "đàng
hoàng" là những quân thu thuế và người tội lỗi, đặc biệt là các người gái
điếm. Người tội lỗi bấy giờ còn được xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc
sống thân xác, như người phung cùi, tàn tật... Những người Pha-ri-siêu nhiều
lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ Chúa:
"Sao Thầy của các
anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?" (Mt. 9, 11).
"Ông nầy đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc. 15, 2).
Theo các sách Phúc âm
ghi lại, thì không những Chúa Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ được
mời ăn thì ngại lắm phải chiều người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới nhà người
thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm thân với họ và ăn ở với họ.
Ông Da-kêu là người
"đứng đầu những người thu thuế" (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi
qua thành phố Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen lấn nổi với đông đảo dân chúng,
nên chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để xem Ngài, chẳng qua vì ông rất
lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông và nói ngay:
"Nầy ông Da-kêu,
xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" (Lc. 19, 5).
Người chung quanh xào
xáo:
"Nhà người tội
lỗi mà ông ấy cũng vào trọ" (Lc. 19, 7).
Chúa Giêsu tự đến để
gặp gỡ Da-kêu và loan Tin Mừng:
"Hôm nay, ơn cứu
độ đã đến cho nhà nầy" (Lc. 19, 9)
Và chúng ta đều biết Chúa
đã chọn 1 trong 12 vị tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi một
người làm nghề thu thuế.
Và để giải thích thái
độ ngược đời của mình, chính Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.
"Người khoẻ mạnh
không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu
nầy: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).
6 - Chúa Giêsu thích
ăn uống, tiệc tùng
Phúc-âm cũng cho chúng
ta thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã
hội xếp loại không "đàng hoàng", Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài
mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan
2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ nạn
bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp theo).
Thế nhưng lịch sử
nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy
rằng nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu
nguyện hay sao!
Luca thuật lại rằng,
sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người
Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: "Môn đệ ông
Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ
ông thì ăn với uống" (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn để cứu
người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu...
Cái mới của Chúa Giêsu
làm cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của
Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu thương
phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt trong câu:
"Hãy yêu rồi làm gì thì làm" (Ama et fac quod vis).
7 - Chúa Giêsu không
giữ luật Do thái
Không những lui tới
bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật
lệ của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay
trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên "ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc
đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn" (Lc. 11, 38). Ðặc biệt trong những
ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người
Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như
việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc.
14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)... Thánh sử Luca ghi rõ:
"Ông trưởng hội đường tức tối vì Ðức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày
sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không
giữ luật:
"Vào ngày sa-bát,
Ðức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng
có mấy người Pha-ri-siêu nói: "Tại sao các ông làm điều không được phép
làm trong ngày sa-bát" (Lc. 6, 1-2).
Nhưng trước những lời
chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: "Con người làm chủ ngày sa-bát"
(Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu
thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề luật
rắc rối bên ngoài: "Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài
trắng trẻo mà bên trong thối tha" (Mt. 23, 13-36).
8 - Chúa Giêsu như
điên cuồng
Trong Toà Tổng trấn
Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng áo đỏ,
đội vương niệm bằng gai để chế nhạo như là kẻ điên cuồng. Nhưng không phải chỉ
người ngoài, mà ngay cả Phê-rô, người vừa được Chúa Giêsu cử sẽ làm đầu Hội
thánh Ngài: "Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ
xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi..." (Mt.
16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng không chịu nổi những lời nói như
điên dại của Chúa Giêsu: "Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau
khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày
thứ ba sẽ sống lại" (Mt. 16, 21). Ðiên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng
thời thông báo mình phải chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa
khi bảo rằng chết sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang
nào cũng làm cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:
"Hãy yêu kẻ thù
và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu
nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy, thì hãy giơ cả má bên kia
nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại... (Lc. 6, 27-31).
Nói như thế, làm sao
có thể nghe cho được, khi tâm tư ta còn sống trong tâm trạng "măt đền mắt,
răng đền răng"!
Và tôi xin kể cho các
bạn kinh nghiệm của tôi về sứ điệp "điên dại" nầy của Chúa Giêsu. Lúc
tôi sống những năm tháng tù đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm sự
cho tôi hay, họ thắc mắc và ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân thiện của tôi
đối với họ: trong hoàn cảnh nầy làm sao có thể thanh thản và dung thứ như thế
được! Tôi đã có dịp chia sẻ các kinh nghiệm đó trong cuốn sách "Năm chiếc
bánh, và hai con cá", tôi vừa cho phổ biến trong năm nầy. Nhưng ở đây tôi
muốn nói, chính sự "điên dại" của tình yêu thương Thiên Chúa đối với
tôi, đối với mọi người là "khuyết điểm" làm tôi say mê hơn cả; sự
điên dại đó lôi kéo tôi bước theo Chúa Giêsu!
9 - Chúa Giêsu phiêu
lưu
Một chương trình cứu
chuộc toàn nhân loại, một dự tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân
nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho Phê-rô,
một người chài lưới bộp chộp, ít học rồi còn sợ sệt chối mình nữa!
Và về phương cách
truyền bá, rao giảng nước Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ:
"Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền
bạc, cũng đừng có hai áo" (Lc. 9, 3).
Phiêu lưu trong việc
tuyển lựa các môn đệ, Chúa Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá
phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị giết
chết và sẽ sống lại trong ngày thứ ba, thì "Các môn đệ buồn phiền
lắm" (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: "Nếu các ông không ăn thịt và
uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình" (Gioan 6, 53), thì
"nhiều môn đệ của Ngài liền nói: "Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe
nổi" (Gioan 6, 60). Và, vì thấy lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và
phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ "Cả
anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?" (Gioan 6, 67).
Có lần khác, có người
lại muốn đi theo Ngài làm môn đệ, nên hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi
cũng xin đi theo". Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).
Và cuộc phiêu lưu tột
đỉnh của Yêu thương nơi Chúa Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư
của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê:
"Ðức Giêsu
KitôVốn dĩ là Thiên Chúamà không nghĩ phải nhất quyết duy trìđịa vị ngang hàng
với Thiên Chúa,nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quangmặc lấy thân phận nô lệ,trở
nên giống phàm nhânsống như người trần thếNgười lại còn hạ mình,vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết,chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-8).
10 - Chúa Giêsu có
những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn
Mâu thuẫn vì Lời từ
Thiên Chúa khác với lời chúng ta.
Làm sao chúng ta thấy
hợp lý được khi tuyên dương Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị
người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).
"Ai muốn cứu mạng
sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được
mạng sống ấy" (Lc. 9, 24).
Làm sao có thể ví Nước
Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13,
18-19).
Mà làm sao có thể
tuyên xưng là "Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống" lại phải chấp nhận sự
chết và chết nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).
Ngày 12.10.1998, có
một cuộc tĩnh tâm linh mục quốc tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91
giám mục, 1,500 linh mục tham dự. Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm của
Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói đến đâu các
ngài lại cười đến đó, cuối bài các ngài xúm lại quanh tôi và bảo: "Chúng
tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu".
**************************
Các bạn thân
mến, Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10 khuyết điểm của Chúa
Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại một lần nữa xác
quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa Giêsu, nên chọn
Chúa Giêsu làm Thầy, làm Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi. Tôi cũng tâm sự với các
bạn rằng, cho đến giây phút nầy, tôi không hề có một chút gì ân hận, Chúa Giêsu
đã cuốn hút cuộc đời của tôi. Vì Chúa là Tình Yêu đã dẫn lối cho tôi đi, đặc
biệt trong những ngày tháng tôi cảm thấy xao xuyến, bứt rứt; chúng đã đem lại
nguồn vui và hy vọng cho tôi, nhất là trong những giây phút khổ đau, tưởng
chừng như không thể chịu đựng nổi. Các bạn biết lý do tại sao không? Vì 10
khuyết điểm đó phát xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban
cho để chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu:
"Không ai có tình
thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu"
(Gioan 15, 13).
Tình yêu đó không nhớ
lỗi lầm, không tính toán, không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không câu
chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu điên cuồng
đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với mẫu mực nhỏ
hẹp của xã hội và của lối cân nhắc giới hạn của chúng ta. Chúa là Ðấng trọn
lành, làm sao có khuyết điểm được, nhưng Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu
nhiệm. Trí khôn loài người không hiểu nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết
điểm! Khuyết điểm ấy lên đến cùng độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng
vào đó, khi người lính thách đố Chúa: "Nếu ông thật là con Thiên Chúa, hãy
xuống khỏi Thánh giá để chúng tôi tin" "Chúa Giêsu thinh lặng, lại
còn cầu nguyện: "Xin Cha tha cho họ..." Lạy Chúa lúc ấy Chúa không
chết thì làm sao chúng con được sống đời đời.
Tôi khích lệ các bạn
chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của Chúa Giêsu.
Và để chấm dứt buổi
chia sẻ nầy tôi xin kể cho các bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân
thế giới đã từng chọn Chúa Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn mà ông
ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn "Kitô giáo kỳ lạ" (Le Christianisme est
étrange, Pascal, Pensées, No 537). Danh nhân ấy là ông Blaise Pascal
(1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp việc trong gia
đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối để xem ông thu
giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị giúp việc thấy ông luôn
mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự may vào gấu áo mới. Người chị
của Pascal cũng như người giúp việc cắt gấu áo và thấy có một miếng giấy nhỏ,
trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:
"Sự sống đời đời là
hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Người... lửa, lửa, lửa; nước mắt,
nước mắt, nước mắt của tình yêu". Ðó là bí quyết của B. Pascal một văn
hào, một triết gia, một nhà toán học.
Đức Hồng Y Phanxico
Xavie Nguyễn Văn Thuận