Lịch sử lễ Mẹ Mân Côi (Đức Bà Chiến Thắng)
Nhìn lại những năm xa xôi ấy
Đức Bà thương xót đã ra tay
Cuộc chiến đua tài cùng hồi giáo
Lặng nhìn chiến sự phải thua đây.
May rằng Giáo Hoàng Pio ngũ
Lệnh tổng lần chuỗi hạt không thôi
Đức Bà Chiến Thắng ơn thiêng phúc
Tước hiệu thay bằng Mẹ Mân Côi
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
Đức Bà thương xót đã ra tay
Cuộc chiến đua tài cùng hồi giáo
Lặng nhìn chiến sự phải thua đây.
May rằng Giáo Hoàng Pio ngũ
Lệnh tổng lần chuỗi hạt không thôi
Đức Bà Chiến Thắng ơn thiêng phúc
Tước hiệu thay bằng Mẹ Mân Côi
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
10 Khuyến điểm của Chúa Giêsu
10 "KHUYẾT ĐIỂM" CỦA CHÚA GIÊSU
1 - Chúa Giêsu kém trí
nhớ!
Lúc sắp trút hơi thở,
Chúa Giêsu có cuộc đối thoại cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo trên
thập giá cạnh ngài. Một trong hai người đó thốt lên lời nầy với Chúa Giêsu:
"Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi". Và Chúa
nói với anh ấy: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên đàng" (Lc. 23, 42-43).
Chúa Giêsu không sưu
tra lại lý lịch người đó để nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc
tội nặng, nhẹ để châm chước hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích đáng.
Người gian phi kêu nài Ngài nhớ, thì Ngài "nhớ" một điều là thấy
người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã quên hết, quên
đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các thánh nói: tên nầy
suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên đàng luôn!
Trong Phúc âm chúng ta
gặp lại nhiều chứng tích về việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua
chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng. Thánh sử Luca kể rằng
người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần gia tài của nó, để bỏ
nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Ðến khi tiêu hết tiền, gặp
năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi mong cha già xét tình cha
con mà tha thứ...
Người cha (là hình ảnh
Chúa Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy con đằng xa,
thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch hỏi tội cũ mà
ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho cậu, làm thịt
con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.
"Anh ta còn ở
đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh
ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng: "Thưa cha, con thật đắc
tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa...". Nhưng
người cha liền bảo người giúp việc rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc
cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ
béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!..." (Lc. 15, 20-23).
Chúng ta thấy ở đây
trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều
kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta
quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta
quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên
Chúa.
2 - Chúa Giêsu không
biết làm toán
Trong dụ ngôn con
chiên bị mất (xem Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy lối cư xử của Chúa
Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở giữa đồng trống mà
mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc lại hơn 99 con còn
lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà
còn đi xa hơn nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên
bị mất. Một mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!
Trong chương trình rao
giảng của Ngài, không phải số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm,
nhưng là những con người; và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng
người, giảng dạy cho một người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với
người phụ nữ Samari trên bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4, 1-42).
3 - Chúa Giêsu không
sành luận lý
Chúa Giêsu không
những không cân nhắc tính toán trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược
lại sự khôn ngoan bình thường của con người.
"Khi nào ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng
giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái
lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui
mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc... (Lc. 14,
12-14).
Trong dụ ngôn về đồng
bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh
mất 1 đồng: "bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được." - Khi
tìm được, thì bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ
phải đến chung vui với mình.
Chúa Giêsu ví mình như
người phụ nữ tìm đồng bạc bị mất trong đêm; không cần suy tính, luận lý là đủng
đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác trong tay; nôn nóng đem
nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự nghỉ ngơi trong đêm
vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý
luận con của người.
"Giữa triều thần
Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc.
15, 10).
4 - Chúa Giêsu không
biết kinh tế tài chánh
Chúa Giêsu đến để loan
báo Nước Trời ở gần con người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước
Trời với các môn đệ và với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời
như người chủ vườn nho thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16).
Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11,
mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do
Thái thời của Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).
Chiều tối đó, ông chủ,
là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1
quan tiền như nhau. Những kẻ làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ
nầy không biết gì về kinh tế, tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán
và sự công bình thông thường:
"Nầy bạn, tôi đâu
có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan tiền
sao?...Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng chót
sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót..."
(Mt. 20, 13-16).
5 - Chúa Giêsu làm bạn
với kẻ tội lỗi
Không phải trong xã
hội của người Do Thái vào thời Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội
chúng ta, người ta khó lòng chấp nhận chuyện người "đàng hoàng" lại
giao du với lớp người được đánh giá là không "đàng hoàng".
Thời bấy giờ người
đồng hương với Chúa Giêsu cho rằng hai giới đặc biệt không "đàng
hoàng" là những quân thu thuế và người tội lỗi, đặc biệt là các người gái
điếm. Người tội lỗi bấy giờ còn được xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc
sống thân xác, như người phung cùi, tàn tật... Những người Pha-ri-siêu nhiều
lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ Chúa:
"Sao Thầy của các
anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?" (Mt. 9, 11).
"Ông nầy đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc. 15, 2).
Theo các sách Phúc âm
ghi lại, thì không những Chúa Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ được
mời ăn thì ngại lắm phải chiều người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới nhà người
thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm thân với họ và ăn ở với họ.
Ông Da-kêu là người
"đứng đầu những người thu thuế" (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi
qua thành phố Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen lấn nổi với đông đảo dân chúng,
nên chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để xem Ngài, chẳng qua vì ông rất
lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông và nói ngay:
"Nầy ông Da-kêu,
xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" (Lc. 19, 5).
Người chung quanh xào
xáo:
"Nhà người tội
lỗi mà ông ấy cũng vào trọ" (Lc. 19, 7).
Chúa Giêsu tự đến để
gặp gỡ Da-kêu và loan Tin Mừng:
"Hôm nay, ơn cứu
độ đã đến cho nhà nầy" (Lc. 19, 9)
Và chúng ta đều biết Chúa
đã chọn 1 trong 12 vị tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi một
người làm nghề thu thuế.
Và để giải thích thái
độ ngược đời của mình, chính Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.
"Người khoẻ mạnh
không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu
nầy: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).
6 - Chúa Giêsu thích
ăn uống, tiệc tùng
Phúc-âm cũng cho chúng
ta thấy sự kiện mỗi lần đến nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã
hội xếp loại không "đàng hoàng", Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài
mở đầu sứ mạng rao giảng công khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan
2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ nạn
bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp theo).
Thế nhưng lịch sử
nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy
rằng nói đến thần thánh, đạo đức, tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay cầu
nguyện hay sao!
Luca thuật lại rằng,
sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người
Pha-ri-siêu và những người thông luật nói với Chúa Giêsu: "Môn đệ ông
Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ
ông thì ăn với uống" (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã dùng những bữa ăn để cứu
người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu...
Cái mới của Chúa Giêsu
làm cho người Pha-ri-siêu và cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của
Ngài, không còn phải là ăn chay hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu thương
phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt trong câu:
"Hãy yêu rồi làm gì thì làm" (Ama et fac quod vis).
7 - Chúa Giêsu không
giữ luật Do thái
Không những lui tới
bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật
lệ của cộng đồng người Do Thái đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay
trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên "ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc
đầu Ngài không rửa tay trước bữa ăn" (Lc. 11, 38). Ðặc biệt trong những
ngày sa-bát, Ngài hay chữa lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người
Do Thái đương thời cho là phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như
việc chữa lành người bại tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc.
14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)... Thánh sử Luca ghi rõ:
"Ông trưởng hội đường tức tối vì Ðức Giêsu đã chữa lành bệnh vào ngày
sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng không
giữ luật:
"Vào ngày sa-bát,
Ðức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng
có mấy người Pha-ri-siêu nói: "Tại sao các ông làm điều không được phép
làm trong ngày sa-bát" (Lc. 6, 1-2).
Nhưng trước những lời
chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả lời: "Con người làm chủ ngày sa-bát"
(Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới là luật yêu
thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích lề luật
rắc rối bên ngoài: "Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài
trắng trẻo mà bên trong thối tha" (Mt. 23, 13-36).
8 - Chúa Giêsu như
điên cuồng
Trong Toà Tổng trấn
Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng áo đỏ,
đội vương niệm bằng gai để chế nhạo như là kẻ điên cuồng. Nhưng không phải chỉ
người ngoài, mà ngay cả Phê-rô, người vừa được Chúa Giêsu cử sẽ làm đầu Hội
thánh Ngài: "Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ
xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi..." (Mt.
16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng không chịu nổi những lời nói như
điên dại của Chúa Giêsu: "Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau
khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày
thứ ba sẽ sống lại" (Mt. 16, 21). Ðiên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng
thời thông báo mình phải chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa
khi bảo rằng chết sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang
nào cũng làm cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:
"Hãy yêu kẻ thù
và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu
nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy, thì hãy giơ cả má bên kia
nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại... (Lc. 6, 27-31).
Nói như thế, làm sao
có thể nghe cho được, khi tâm tư ta còn sống trong tâm trạng "măt đền mắt,
răng đền răng"!
Và tôi xin kể cho các
bạn kinh nghiệm của tôi về sứ điệp "điên dại" nầy của Chúa Giêsu. Lúc
tôi sống những năm tháng tù đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm sự
cho tôi hay, họ thắc mắc và ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân thiện của tôi
đối với họ: trong hoàn cảnh nầy làm sao có thể thanh thản và dung thứ như thế
được! Tôi đã có dịp chia sẻ các kinh nghiệm đó trong cuốn sách "Năm chiếc
bánh, và hai con cá", tôi vừa cho phổ biến trong năm nầy. Nhưng ở đây tôi
muốn nói, chính sự "điên dại" của tình yêu thương Thiên Chúa đối với
tôi, đối với mọi người là "khuyết điểm" làm tôi say mê hơn cả; sự
điên dại đó lôi kéo tôi bước theo Chúa Giêsu!
9 - Chúa Giêsu phiêu
lưu
Một chương trình cứu
chuộc toàn nhân loại, một dự tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân
nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho Phê-rô,
một người chài lưới bộp chộp, ít học rồi còn sợ sệt chối mình nữa!
Và về phương cách
truyền bá, rao giảng nước Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ:
"Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền
bạc, cũng đừng có hai áo" (Lc. 9, 3).
Phiêu lưu trong việc
tuyển lựa các môn đệ, Chúa Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá
phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị giết
chết và sẽ sống lại trong ngày thứ ba, thì "Các môn đệ buồn phiền
lắm" (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: "Nếu các ông không ăn thịt và
uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình" (Gioan 6, 53), thì
"nhiều môn đệ của Ngài liền nói: "Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe
nổi" (Gioan 6, 60). Và, vì thấy lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và
phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ "Cả
anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?" (Gioan 6, 67).
Có lần khác, có người
lại muốn đi theo Ngài làm môn đệ, nên hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi
cũng xin đi theo". Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).
Và cuộc phiêu lưu tột
đỉnh của Yêu thương nơi Chúa Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư
của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Phi-líp-phê:
"Ðức Giêsu
KitôVốn dĩ là Thiên Chúamà không nghĩ phải nhất quyết duy trìđịa vị ngang hàng
với Thiên Chúa,nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quangmặc lấy thân phận nô lệ,trở
nên giống phàm nhânsống như người trần thếNgười lại còn hạ mình,vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết,chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-8).
10 - Chúa Giêsu có
những lời giảng dạy xem ra mâu thuẫn
Mâu thuẫn vì Lời từ
Thiên Chúa khác với lời chúng ta.
Làm sao chúng ta thấy
hợp lý được khi tuyên dương Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị
người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).
"Ai muốn cứu mạng
sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được
mạng sống ấy" (Lc. 9, 24).
Làm sao có thể ví Nước
Thiên Chúa, Nước của Ðấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13,
18-19).
Mà làm sao có thể
tuyên xưng là "Con Thiên Chúa, Ðấng hằng sống" lại phải chấp nhận sự
chết và chết nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).
Ngày 12.10.1998, có
một cuộc tĩnh tâm linh mục quốc tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91
giám mục, 1,500 linh mục tham dự. Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm của
Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói đến đâu các
ngài lại cười đến đó, cuối bài các ngài xúm lại quanh tôi và bảo: "Chúng
tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu".
**************************
Các bạn thân
mến, Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10 khuyết điểm của Chúa
Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại một lần nữa xác
quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa Giêsu, nên chọn
Chúa Giêsu làm Thầy, làm Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi. Tôi cũng tâm sự với các
bạn rằng, cho đến giây phút nầy, tôi không hề có một chút gì ân hận, Chúa Giêsu
đã cuốn hút cuộc đời của tôi. Vì Chúa là Tình Yêu đã dẫn lối cho tôi đi, đặc
biệt trong những ngày tháng tôi cảm thấy xao xuyến, bứt rứt; chúng đã đem lại
nguồn vui và hy vọng cho tôi, nhất là trong những giây phút khổ đau, tưởng
chừng như không thể chịu đựng nổi. Các bạn biết lý do tại sao không? Vì 10
khuyết điểm đó phát xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban
cho để chúng ta được sống nhờ Chúa Giêsu:
"Không ai có tình
thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu"
(Gioan 15, 13).
Tình yêu đó không nhớ
lỗi lầm, không tính toán, không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không câu
chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu điên cuồng
đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với mẫu mực nhỏ
hẹp của xã hội và của lối cân nhắc giới hạn của chúng ta. Chúa là Ðấng trọn
lành, làm sao có khuyết điểm được, nhưng Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu
nhiệm. Trí khôn loài người không hiểu nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết
điểm! Khuyết điểm ấy lên đến cùng độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng
vào đó, khi người lính thách đố Chúa: "Nếu ông thật là con Thiên Chúa, hãy
xuống khỏi Thánh giá để chúng tôi tin" "Chúa Giêsu thinh lặng, lại
còn cầu nguyện: "Xin Cha tha cho họ..." Lạy Chúa lúc ấy Chúa không
chết thì làm sao chúng con được sống đời đời.
Tôi khích lệ các bạn
chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của Chúa Giêsu.
Và để chấm dứt buổi
chia sẻ nầy tôi xin kể cho các bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân
thế giới đã từng chọn Chúa Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn mà ông
ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn "Kitô giáo kỳ lạ" (Le Christianisme est
étrange, Pascal, Pensées, No 537). Danh nhân ấy là ông Blaise Pascal
(1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp việc trong gia
đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối để xem ông thu
giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị giúp việc thấy ông luôn
mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự may vào gấu áo mới. Người chị
của Pascal cũng như người giúp việc cắt gấu áo và thấy có một miếng giấy nhỏ,
trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:
"Sự sống đời đời là
hiểu biết và yêu mến Ðức Kitô và Ðấng đã sai Người... lửa, lửa, lửa; nước mắt,
nước mắt, nước mắt của tình yêu". Ðó là bí quyết của B. Pascal một văn
hào, một triết gia, một nhà toán học.
Đức Hồng Y Phanxico
Xavie Nguyễn Văn Thuận
Những số điện thoại khẩn
Khi cần thiết có thể gọi trực tiếp không cần qua tổng đài, gặp anh Giêsu
1.Khi buồn sầu. Hãy gọi : Ga 14
2. Khi bị bỏ rơi. Hãy gọi : Tv 27
3. Khi muốn gặt hái thành công. Hãy gọi : Ga 15
4. Khi đã trót phạm tội. Hãy gọi : Tv 51
5. Khi lo lắng. Hãy gọi : Mt 6,25-34
6. Khi gặp nguy hiểm. Hãy gọi : Tv 91
7. Khi cảm thấy Thiên Chúa như xa vắng. Hãy gọi : Tv 139
8. Để củng cố đức tin và thêm lòng cậy trông. Hãy gọi : Tv 27
9. Khi cô đơn sợ sệt. Hãy gọi : Tv 23
10. Khi cay đắng, muốn chỉ trích. Hãy gọi : 1Cr 13
11. Để có bí quyết hạnh phúc. Hãy gọi Cl 3,1-17
12. Để hiểu Kitô hữu là ai. Hãy gọi : 2Cr 5,15-19
13. Khi xuống tinh thần, thất vọng. Hãy gọi : Rm 8,31-39
14. Khi muốn bình an và nghỉ ngơi. Hãy gọi : Mt 11,25-30
15. Khi thế giới dường như lớn hơn Thiên Chúa. Hãy gọi : Tv 90
16. Để sống như con cái Thiên Chúa. Hãy gọi : Rm 8,1-30
17. Để được an toàn khi ra khỏi nhà, đi làm hay đi du lịch. Hãy gọi : Tv 121
18. Để lời cầu nguyện đừng trở nên ích kỷ. Hãy gọi : Tv 67 hoặc Pl 2,1-5
19. Muốn mỗi ngày được khôn ngoan hơn. Hãy gọi : Hc 8,31-37
20. Khi muốn có can đảm để nhận mỗi công việc. Hãy gọi : Gs, 1,1-18
21. Để sống hoà hợp với người chung quanh. Hãy gọi : Rm 12,1-21
22. Khi nghĩ đến chuyện đầu tư làm ăn, thu hồi vốn. Hãy gọi : Mc 10,17-31
23. Khi sa sút tinh thần. Hãy gọi : Tv 27
24. Khi túi tiền trống rỗng. Hãy gọi : Tv 37
25. Khi mất lòng tin nơi kẻ khác. Hãy gọi : 1Cr 13
26. Khi thiên hạ có vẻ như không tốt với ta. Hãy gọi : Ga15
27. Khi đang thất vọng vì công việc. Hãy gọi : Tv 126
28. Khi thấy thế giới trở nên nhỏ bé, còn ta thì vĩ đại. Hãy gọi : Tv 19
Các số khác:
29. Để đối phó với sợ hãi. Hãy gọi : Tv 34, 5-9
30. Để cảm thấy an toàn yên ổn. Hãy gọi : Tv 125
31. Để cảm thấy an tâm. Hãy gọi : Mt 14,22-33
32. Để nhắc nhở trong việc buôn bán. Hãy gọi : Hc 26,29-27,3
Tất cả các đường dây này đều được nối lên trời. Hoạt động miễn phí 24/24 giờ.
Bạn hãy bồi dưỡng thêm cho đức tin của mình.Hãy nhấc máy và gọi liền nhé, mọi nghi nan ngờ vực hay sợ hãi sẽ tan biến mất.
Demo test
Bài demo thôi
Ngắm 14 chặng đàng Thánh Giá
Lạy ơn Ðức Chúa Giêsu là Vua cả
trên trời dưới đất, là Ðấng thiên hạ ước ao lâu đời, mà Philatô luận giết
Chúa con cách xấu hổ nhuốc nha dường ấy. Xin ban cho con ăn năn đền tội, cho
đáng Chúa con cứu lấy con nơi toà phán xét sau này.
1 Kinh Lạy Cha, 1 Kinh
Kính Mừng, 1 Kinh Sáng Danh
Lạy Chúa, xin Chúa
thương xót chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con. |
GIỜ CHẦU THÁNH THỂ THÁNG 4 NĂM 2014 - GX Vườn Chuối
I.
MỞ
ĐẦU:
-Đặt
mình Thánh Chúa
-Hát:
con mến yêu tôn thờ trong lòng
Lạy Chúa Giêsu Thánh
Thể, chúng con là những thiếu nhi của Chúa, chúng con quy tụ nơi
Thánh đường nhỏ bé trong tinh thần hiệp nhất yêu thương nhau, để trong
tâm tình đó cùng dâng lên Chúa lòng mến yêu tôn thờ. Với niềm xác tín,
chúng con tin Chúa đang hiện diện sống động trước mặt chúng con.
Chúng con cảm tạ những ân sủng là chính tình thương bao la Chúa đã
dành cho chúng con qua bí tích Thánh Thể Nhiệm Màu.
BỐN CHUYỆN LẠ Ở ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN- Thật đáng để suy ngẫm | Thảo luận tin tức thời sự, chia sẻ ảnh, video nóng nhất trong ngày - ViTalk
1./ Trung thực
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.
Sự trung thực của người Nhật, in đậm nét ở những "mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka... cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.
Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ "ăn cắp vặt" gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 - 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.
2./ “No noise” - không ồn
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.
Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.
3./ Nhân bản
Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.
4./ Bình đẳng
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.
Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.
Ở Nhật, nội trợ là một nghề. Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu. Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.
Sự trung thực của người Nhật, in đậm nét ở những "mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka... cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.
Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ "ăn cắp vặt" gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 - 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.
2./ “No noise” - không ồn
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.
Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.
3./ Nhân bản
Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.
4./ Bình đẳng
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.
Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.
Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.
Ở Nhật, nội trợ là một nghề. Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu. Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.
Chương trình văn nghệ từ thiện ủng hộ đồng bào bị lũ lụt ở miền Trung
Giáo
xứ Thiên Ân
Ban
Mục Vụ Giới Trẻ
CHƯƠNG
TRÌNH VĂN NGHỆ VÌ NGƯỜI NGHÈO
1.
Mục
đích
-
Nhằm quyên góp tiền giúp đỡ đồng bào bị
lũ lụt ở miền Trung, nhất là các giáo dân ở khu vực Nghệ An - Thanh Hóa có thể
được phần nào no ấm nhân mùa Giáng Sinh.
-
Tổ chức chương trình mừng Giáng Sinh cho
giáo dân trong giáo xứ và xung quanh giáo xứ.
2.
Thời
gian và địa điểm
-
Thời gian: 19g30 ngày 06.12.2013
-
Địa điểm: giáo xứ Thiên Ân – 179 Lê Niệm,
quận Tân Phú
3.
Lợi
ích khi đến với chương trình
-
Khi bạn mua 1 vé (50.000 đồng/1 vé) là bạn
đã đóng góp một phần vào quỹ giúp người nghèo của giáo xứ. Tấm lòng của bạn sẽ
được Thiên Chúa ghi nhận và trả công bội hậu…
-
Được phần nước miễn phí.
-
Được thưởng thức chương trình văn nghệ
và tham gia vào những phần đấu giá tranh gây quỹ.
4.
Danh
sách khách mời tham gia chương trình văn nghệ
-
Đàm Vĩnh Hưng
-
Dương Triệu Vũ
-
Nguyễn Phi Hùng
-
Nguyễn Hồng Ân
-
Thúy Uyên (á quân Gương Mặt Thân Quen
2013)
-
Xuân Nghi (á quân Giọng Hát Việt 2012)
-
Phan Ngọc Luân
-
Thái Trinh
-
Minh Sang The Voice
-
Hồng Gấm The Voice
-
Hồng Phước idol
-
Dẫn chương trình : MC Quốc Quân - Vy Oanh
5. Sự
có mặt của toàn thể anh / chị em cùng các bạn là niềm vinh hạnh cho giáo xứ
chúng tôi. Rất mong được mọi người ủng hộ.
TPHCM, ngày 22 tháng 11 năm 2013
Liên hệ đặt vé : 0933.432.838
(số lượng chỗ ngồi có hạn nên xin đặt vé sớm nhé)
(số lượng chỗ ngồi có hạn nên xin đặt vé sớm nhé)
Kịch bản Giáng Sinh Gốc Giêsê trổ bông
GỐC GIÊSÊ TRỔ BÔNG
CHA CHÁNH XỨ : ( Hoặc MC )
Kính
thưa cộng đoàn dân Chúa. . . .
Đêm nay, đêm chúng ta mong chờ
Thiên Chúa xuống thế làm người. Người
đến để đem tình thương trao ban cho con người tội lỗi chúng ta, để rồi cuối
cùng Ngài đã dùng chính Máu của Ngài để giao hòa giữa con người và Thiên Chúa .
“ Con Thiên Chúa xuống thế làm người để con người được nên con Thiên Chúa”.
Nhưng nhân loại có mấy ai thấu hiểu ân tình đó. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại
chặng đường tình yêu ấy trong giờ canh thức này.
Kính mời cộng đoàn chúng ta cùng
đứng lên để xin ơn Chúa Thánh Thần mở lòng chúng ta trước mầu nhiệm cao cả này.
* Hát : CẦU XIN CHÚA THÁNH THẦN . . . . . . . . . . . TCCĐ Tr.180
( hát câu 1 & 2 )
( Đèn tắt, không còn một tí ánh sáng nào )
Người dẫn : Thiên Chúa toàn năng, toàn
thiện, toàn mỹ, tràn đầy phúc lộc. Nhưng vì tình yêu, Người đã tạo dựng muôn
loài, muôn vật, để chúng được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, được chung
chia tình yêu với Thiên Chúa.
Khởi thủy, Thiên Chúa đã dựng nên
trời và đất, đất thời trống không mông quạnh, tối tăm trên mặt uông mang, và
Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán : “ Hãy có ánh sáng” – và ánh sáng đã có – ( Anh sáng tưng bừng ) – Thiên Chúa
đã thấy ánh sáng thật tốt lành và Thiên Chúa đã tách ánh sáng với tối tăm.
Thiên Chúa đã gọi ánh sáng là Ngày, còn tối tăm Ngài gọi là Đêm. Qua một buổi
chiều và một buổi sáng : NGÀY THỨ NHẤT.
( Đèn chớp tắt liên tục
. . . . . )
Thiên Chúa đã phán : (
tiếng vọng ) “Đất hãy xanh um thảo vật xanh tươi, rau cỏ nảy hạt giống, và cây cỏ,
quả sinh quả theo loại trên đất, những quả bên trong có hạt giống theo loại ”
và Thiên Chúa thấy thế là tốt lành, Thiên Chúa đã phán : : ( tiếng vọng ) “Hãy
có đèn đóm trên vòm trời để tách ngày với đêm, và chúng hãy nên dấu định ngày,
định năm”. Thiên Chúa đã làm 2 cái đèn, cái đèn lớn hơn cai ngày ( ánh sáng cố định . . .bật đèn pha hoặc sport light tạo thành
hình tròn lớn trên phông ) cái đèn nhỏ hơn để cai đêm và thêm các tinh sao.
Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi mặt đất, để cai ngày và đêm, cùng để
tách ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa đã thấy thế là tốt lành.
Thiên Chúa phán : (
tiếng vọng ) “Nước hãy sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và chim hãy bay lượn
trên mặt đất” và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa chúc lành cho chúng ( Tạo tiếng kêu muôn thú )
Thiên Chúa phán : ( tiếng vọng ) “Ta hãy làm ra con người theo
hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta, chúng hãy trị vì trên cá biển, chim trời và
trên súc vật, cùng mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng” Thiên Chúa
đã dựng con người theo hình ảnh mình, theo hình ảnh Thiên Chúa. Người đã dựng
nên nó là NAM là NỮ. Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng.
* Hát : TIN CẬY MẾN . . . . . . . .
. . .
Người
dẫn :
Sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc
Thiên đàng, Thiên Chúa đã ban cho con người, nhưng Ngài không ép buộc con người
lãnh nhận. Hai ông bà đã trải qua một cơn thử thách, họ phải nói lên ý của mình
với Thiên Chúa. Và Rắn là vật tinh nhanh hơn mọi dã thú mà Giavê Thiên Chúa đã
làm ra. Nó nói với người đàn bà : Rắn : “có
phải Thiên Chúa cấm ông bà không được ăn cây nào trong vườn?”
Bà E-và : Không, Chúa cho ăn hết mọi thứ
cây trái, nhưng cây ở giữa vườn thì không được ăn, ngày nào mà ăn nó thì sẽ
chết, eo ơi . . . .mà . . chết là gì nhỉ
????!!!
Rắn : “ Ha
ha ha. Dại ơi là dại, chẳng chết chóc gì đâu, vì Chúa biết rằng ngày nào các
ngươi ăn trái cây đó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ trở nên giống
Thiên Chúa, biết tất cả mọi việc tốt, xấu, nên Thiên Chúa cấm các ngươi ăn.
Không tin các ngươi cứ ăn thử đi, xem ta nói có đúng không, chẳng có chết chóc
gì đâu, trái này ngon lắm đó ha ha ha ”
Người
dẫn : Bà đã nhìn, quả thực nhìn trái chắc là ăn
phải ngon lắm đây, nhìn không đã sướng mắt. Nó đáng quý thật, cái cây ấy để
được tinh khôn như Thiên Chúa, Bà đã hái lấy quả mà ăn, rồi trao cho chồng. Ông
đã vì bà mà quên lời dặn dò của Thiên Chúa, ông đã ăn. . . . và mắt hai ông bà
đã mở ra, cho họ thấy họ đang trần truồng. Họ đã lấy lá kết lại để che thân….
Thiên
Chúa : (Tiếng vọng….. gọi ) Adam……….- Adam ………… Adam………
Adam
: “Tôi đã nghe tiếng Chúa, nhưng tôi
sợ hải vì tôi trần truồng và tôi đang ẩn nấp”
Thiên
Chúa : (Tiếng vọng ) “Ai
đã mách cho ngươi biết là ngươi đang trần truồng? Hay là ngươi đã ăn trái cây mà ta đã cấm ?”
Adam : Người
đàn bà mà Chúa đã đặt bên tôi, cô ta đã hái trái nơi cây ấy trao cho tôi, và
tôi đã ăn.
Thiên
Chúa : (Tiếng vọng ) “E-và, sao ngươi làm như thế ??
E-va
: “ con rắn đã lừa phỉnh tôi nên tôi đã ăn ”
Thiên
Chúa : (Tiếng vọng ) “ Hỡi
rắn già, bởi ngươi đã làm thế, nên ngươi hãy là đồ chúc dữ giữa muôn thú vật. Mi phải bò bằng bụng và ăn
bụi đất mọi ngày trong đời mi.
- Hỡi
người phụ nữ, ngươi sẽ phải vất vả trong thai ngén, và đau đớn trong việc sanh
con.
- Còn Adam, vì ngươi nghe lời vợ mà ăn trái
cấm, thì đất sẽ sinh gai góc cho ngươi, mồ hôi đẫm măt mới có bánh ăn, cho đến khi về lại
bụi đất, vì tự đất, ngươi đã sinh ra”.
Người dẫn
: Hai ông bà phải qua cơn thử thách và họ đã rơi vào
bất phục và kiêu ngạo, lạm dụng tự do để chống lại Thiên Chúa. Con người phá đổ
trật tự phải có để đạt tới cùng đích của mình, phá vỡ mọi hòa hợp nơi chính bản
thân cũng như với người khác và với mọi thụ tạo.
Khi
ăn trái cây Thiên Chúa đã cấm, họ đã vi phạm quy ước giữa Thiên Chúa và con
người, họ đã muốn được bằng Thiên Chúa, hiểu biết như Thiên Chúa. Hậu quả là
mắt họ đã mở ra để nhìn những yếu kém thấp hèn của mình, nhận ra mình trần trụi
trong muôn giới hạn. Cảnh hòa hợp giữa con người và thiên nhiên không còn nữa.
Đất đã sinh gai góc cho họ. . . .
* Hát : PERSONENT HODIE . . . . . .
. . . . .
CẢNH I
: CA-IN VÀ A-BEN
(Ca-in đang hậm
hực, tức tối vì bị Chúa từ chối lễ vật …………….. A-ben bước vào trong tâm trạng
vui sướng)
A-ben : Hôm nay hai anh em mình đi tế lễ lên Thiên
Chúa vui quá anh hai há . . . . . . .
Ca-in : Vui khỉ gì chứ ! Sao Thiên Chúa nhận lễ
vật của mày, còn Chúa lại chê lễ vật của tao ? Chúa coi mày hơn tao hả?
A-ben : Tại anh Hai đó, anh Hai dâng cho Chúa những
trái cây dư thừa, không ngon nên Chúa không nhận lễ vật của anh hai là phải rồi, thôi
anh Hai đừng buồn, lần sau anh Hai dâng cho Chúa những trái cây
ngon, đầu mùa là Chúa sẽ nhận thôi, đừng buồn nữa anh hai nha.
Ca-in : Thì . . .tao có gì dâng nấy, chỉ vì có mày
bày đặt sốt sắng, nên Chúa mới chê lễ vật của tao . . . . . đúng rồi, chỉ tại mày, tại mày……tao sẽ giết
mày, để xem Chúa còn nhận lễ vật của mày nữa không…..cho mày chết nè.. .. ..
(
Cảnh Ca-in giết chết A-ben. . . .)
Ca-in : Máu
. . . trời ơi tôi đã giết em tôi . . . bàn tay tôi đã vấy máu em tôi . . . .
Người dẫn
: Con người
khước từ Thiên Chúa, và hậu quả họ đã khước từ nhau. Con người chạm tay vào máu
của anh em mình, sự chết đã xuất hiện trên thế gian. Ca-in bàng hoàng trước
thân xác bất động của A-ben. Chương trình cứu độ gặp một thất bại thê thảm.
Nhưng Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu đã không bỏ mặc con người trong tội.
Người hứa ban Đấng Cứu Thế. Lời hứa cứu độ là sự nâng đỡ niềm chờ mong và hy
vọng cho nhân loại. Con người càng chìm sâu trong tội, càng cần ơn cứu độ của
Chúa.
* Hát : MONG CHỜ GIÊ-SU ( lời Lm.Vũ Khởi
Phụng) . . . . . . . . . . .
CẢNH II : THIÊN CHÚA KÊU
GỌI ABRAHAM
Người
dẫn : Nhưng tình
yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn, Ngài không nỡ bỏ rơi con người trong cùng khốn
thất vọng. Ngài Hứa ban Đấng Cứu Thế, chính niềm hy vọng này đã là sức đỡ nâng
cho dân Chúa trong suốt chiều dài lịch sử.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến.
Thiên Chúa đã chọn một người để làm nên một dân tộc, đón chờ và loan báo ơn cứu
độ của Ngài. Abraham đã được chọn, ông đã được tôi luyện trong thử thách gian
nan.
(
cảnh ông bà Abraham khăn gói lên đường )
Người
dẫn : Thiên Chúa
đã gọi Abraham lên đường cùng gia đình rời bỏ nơi đang sinh sống. Abraham lên
đường ra đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa mà không biết mình đi đâu ! chỉ biết
rằng đây là lệnh của Thiên Chúa và ông mau mắn thi hành, để lại sau lưng tất cả
gia sản, tình nghĩa ruột thịt, cả những toan tính cho tương lai.
Thấm thoát đã 30 năm, kể từ ngày
Abraham rời bỏ quê hương đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Lời hứa năm nào
tưởng chừng như rơi vào quên lãng, nhưng nay Thiên Chúa lại thực hiện. Isaac
chào đời năm Abraham 100 tuổi và mẹ cậu tròn 90. cậu là tiếng cười là niềm vui
và hy vọng cho ông bà. Cuộc hạ sinh Isaac cũng cố lòng tin nơi cha mẹ cậu. Ông
bà không ngớt lời ca tụng tình yêu của Thiên Chúa, ngợi khen vì những kỳ công
vĩ đại, ngợi khen vì Ngài nhân hậu và từ bi.
( Abraham dìu bà Sara bước ra sân khấu . . .
. . )
Sa-ra :
Nào ai dám báo tin cho Abraham rằng tôi sẽ cho con bú (cười thầm, tủm tỉm) Thật vậy, Tôi đã sinh con trai cho ông lúc tuổi già. Quả
thật Thiên Chúa là Đấng trung tín.
Abraham
: Bà biết không ! trong tất cả gia
sản mà Thiên Chúa đã ban cho tôi, Isaac là quý nhất. Tôi yêu nó vô cùng, tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả
vì nó.
Sa-ra : (ngắt lời) Này ! này, ông tưởng có mình ông là yêu quý nó chắc . .
. thằng bé thật thông minh và ngoan ngoãn lắm. Thôi ông ở đây để
tôi đi tìm cục cưng của tôi.
(
Sara đi vào, còn lại một mình, Abraham ngồi thanh thản . . . nhạc dạo nhẹ . . .
chợt tiếng trống rền và tiếng Thiên Chúa hùng tráng , rõ ràng, chậm rãi.)
Gia-vê
: “Abraham !. . . . Abraham ! . . .
. . Abraham !”( Mỗi lần tiếng
gọi, trống chiêng đổ dồn, Abraham dáo dác, lắng nghe và . . . )
Abraham : (Quỳ
phục sát đất) Này tôi đây, xin Chúa hãy phán.
Gia-vê
: “ Ngày mai, hãy đem đứa con một mà
ngươi yêu quý là Isaac, đến đất Môria. Ở đó hãy dâng nó làm lễ thượng hiến cho Ta, trên một
ngọn núi ta sẽ chỉ cho ngươi . . .”
Abraham : (
Sửng sốt) Lễ thượng hiến . . . . . .
.Lễ thượng hiến . . . .sao được ?! . .Lễ thượng hiến . . .
(Sa-ra
bước vào bế Isaac vào vừa đi vừa đùa với con. Abraham đi đi, lại lại suy nghĩ
dữ dội, thở vắn thở dài
).
Sa-ra : Có gì vậy ông ? có gì mà xem
ông lo lắng giữ vậy?
Abraham : (Ngập
ngừng. . .) Thiên Chúa dạy . . . Ngài muốn . . . . dâng . . . lại . . .cho
Ngài . . Isaac . . .
Sa-ra : Dâng lại ? . . . .dâng lại . .
.( ôm ghì Isaac vào lòng) . . . là
thế nào?
Abraham : Là sát tế . . . thượng hiến cho Thiên
Chúa ! . . .
Sa-ra : (sửng sốt) Sao . . . sát tế Isaac con tôi ư ? Chúa ơi . . . (quay lại Abraham) có đúng thực Chúa muốn sát tế con tôi . . . (lay vai ông Abraham) Ông có nghe đúng như vậy thực không? (
khi thấy Abraham gật đầu bà Sa-ra té xỉu)
Abraham : (
Buồn rầu . . xa vắng) Đúng vậy ! Sa-ra ơi ! Chúa đã muốn thế thì . . . tôi
xin vâng . . . xin được dâng lên Chúa . . . Này Sa-ra ( lay Sa-ra tỉnh dậy – bà ngơ ngác và òa lên
khóc. Abraham an ủi bà) Nếu Thiên Chúa đã ban
cho chúng ta Isaac vào tuổi này, thì Ngài cũng có thể ban cho chúng ta nhiều Isaac khác
nữa. Bà hãy giúp tôi hành trang để tôi thi hành lệnh của
Chúa (Sa-ra lắc đầu, không hiểu nổi . .
bước vào trong tâm trạng trống vắng……..)
( Diễn đạt nội tâm của Abraham, ray rức, phân vân, đau khổ, bức xúc . . .
. . . }
Người
dẫn : Đêm hôm đó
là đêm ngắn nhất và là đêm đau đớn nhất với Abraham . . . Sáng hôm sau vâng lời Thiên Chúa , Abraham
chuẩn bị hành trang lên núi tế lễ. Lòng ông quặn đau, xót xa vì đứa con một mà
ông rất mực yêu quý, giờ đây, chỉ vì kính trọng Thiên Chúa mà ông sẵn sàng hiến
dâng (nhạc đệm)
( trong khi Abraham đang chuẩn bị thì Isaac tung tăng chạy vào . . .)
Isaac : Cha ơi ! Mẹ nói hôm nay hai cha con mình sẽ
đi tế lễ cho Thiên Chúa phải không cha? Vui quá được đi chung với cha để tế lễ cho Thiên
Chúa . . . mà cha ơi con thấy hình như mẹ khóc đó cha . . . .
Abraham : (Ngẩng
đầu lên nhìn con) Ồ, phải
đó con, tế lễ cho Thiên Chúa là bổn phận của con người chúng
ta, là vinh dự mà chúng ta phải chu toàn với tất cả lòng vui sướng và biết ơn con à (
len lén chùi nước mắt, cột bó củi xong ông đứng lên ) chắc có lẽ mẹ không
được đi nên mẹ khóc đó. Thôi chúng ta lên đường con
nhé. . . .
(
Abraham đặt bó củi nhỏ lên vai Isaac, ông dẫn con đến nơi lễ tế, và Isaac giúp
ông vác củi một các hồn nhiên, vui vẻ. . . Nhạc nền dạo nhẹ . . .)
Isaac : Cha ơi, củi lửa đã sẵn, còn lễ vật dâng Chúa
đâu? Còn tìm hoài hổng thấy, chết rồi, hay là cha quên đem theo rồi?
Abraham : (
ngừng tay, vuốt đầu Isaac) À. Lễ vật . . . . Chúa sẽ liệu con à . . .(thở dài)
Isaac : A-ha, Chúa sẽ lo liệu, Chúa sẽ lo liệu. . . (Nhảy
lên vui sướng)
(
đến nơi, Isaac giúp cha xếp củi, Abraham quay lại lấy sợi dây, trói Isaac lại,
Đặt trên đống củi, trong khi đó Isaac giãy dụa, sợ hãi, thét lên . . )
Isaac : Cha ơi !. . . .Cha ơi . . .
(Abraham
im lặng, lấy dao ra, cúi hôn con rồi giơ dao lên ngửa mặt lên trời . . .)
Abraham : Lạy Thiên Chúa của con ! . . . xin
Ngài đón nhận của lễ con dâng hiến . . .
( Khi ông chuẩn bị ra tay, Isaac
khóc thét lên, tiếng Gia-vê Thiên Chúa , tay ông Abraham bị hất ra làm rớt con
dao xuống đất – minh hoạ – tiếng trống và tiếng chiêng dồn dập + tiếng Organ )
Gia-vê
: “ Abraham – Abraham ! ( Abraham quỳ phục xuống đất) hãy dừng tay, đừng hại đứa trẻ. Vì giờ đây ta biết là ngươi kính sợ Thiên Chúa là Chúa của
ngươi, ngay cả con một, người đã không từ chối với ta.Ta sẽ ban phúc lành
cho ngươi, sẽ làm cho dòng giống ngươi nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển.
Mọi dân thiên hạ sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta.
Abraham : Con xin cảm tạ Chúa – con xin tôn
vinh và thờ lạy một Chúa duy nhất.
( Abraham vui mừng
đứng lên cởi trói cho Isaac – bà Sa-ra bước vào cả ba vui mừng sấp mình thờ lạy
Chúa)
Người
dẫn : Việc Thiên
Chúa ban tặng cho Abraham một người con, rồi lại truyền cho ông mang con
đi hiến tế, chính là hình ảnh huyền
nhiệm Thiên Chúa mạc khải sẽ ban cho nhân loại người Con yêu dấu và duy nhất
của Ngài, đề Người Con ấy trở nên lễ vật hy sinh cứu chuộc cho nhân loại.
CẢNH III : CHÚA
GIÁNG SINH
* Hát đối
xứng : VUI LÊN NHÂN GIAN Lời Vũ Khời Phụng . . . . . . . . . . .
Người
dẫn : Thời gian
dần trôi, thời gian là quảng đường thử thách của loài người. Thời gian có thể
làm tình nghĩa thêm đậm đà, nhưng cũng có thể làm tàn phai muôn kỷ niệm. Thời
gian cộng với sự yếu đuối, đã đưa loài người đến lầm lỗi. Tội lỗi chồng chất
tội lỗi, con người chạy theo các thần tượng quay lưng lại với Thiên Chúa, để
rồi Israel phải rên xiết dưới ách thống trị của đế quốc La Mã . . . . . .
* Hát : TRÔNG ĐỢI Lời Didier Rimaud vf J.Binh . . . . . . . .
. . .
Lửa
hy vọng dường như đã tàn, niềm tin của họ tưởng chừng đã tắt. Con người đã
không còn gì thiết tha với phần rỗi, với ơn cứu độ của mình. Con người đã muốn
buông xuôi, thả nổi cuộc đời mình. Nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, trung tín.
Ngài chủ động thực hiện lời hứa . . . Chúa đến vào lúc ta không ngờ. Ngài ban
tặng cho nhân loại Người con Một, để mở đầu công cuộc cứu chuộc .
Cách đây hơn 2000 năm, vào một đêm lạnh lẽo mùa
đông, tại làng Bê-lem, xứ Giu-đa. . . . . .. . .
( Giu-se và Maria tiến ra, dáng mỏi mệt . .
. Maria đã sắp đến ngày nở nhụy khai hoa. . . )
Giu-se : ( Gõ cửa : Cốc ! Cốc !
Cốc ! . . . . . . )
Gia
chủ : ( vừa
đi ra vừa che miệng ngáp, vươn vai cằn nhằn ) Ông bà cần gì ?
Giu-se : Chúng tôi là khách lỡ đường, vì trời đã tối,
mà vợ tôi thì lại sắp đến ngày sinh, xin ông bà thương
giúp đỡ cho chúng tôi trú ngụ qua đêm.
Gia
chủ : ( nhìn Maria soi mói – lắc đầu từ chối) Rất tiếc, ở đây hết chỗ
rồi, mong ông bà thông cảm tìm nơi khác nha. . . . (làm động tác xua đuổi và đóng cửa lại)
Người
dẫn : Các cánh cửa đều khép lại khi thấy đôi
vợ chồng sa cơ lỡ bước. Giu-se và Maria bị hất hủi, Con Thiên Chúa đã bị hất
hủi trong đêm đông giá lạnh cắt buốt. Nhưng với lòng tin vào Thiên Chúa. Ông bà
vẫn an tâm phó thác mọi sự cho Thiên Chúa “ Ngài đã đến nơi nhà Ngài, mà người
thân đã không đón tiếp Ngài” . . . .
Maria : Giu-se ơi ! . . . (Maria khuỵ xuống – Trống chiên vang dồn )
Giu-se : ( nhìn
quanh ) này Maria ! cố lên, ở kia có
cái hang đá, chắc của mục đồng ở, thôi ta vào đó trú đỡ qua đêm nay. . . .
( Giu-se cúi xuống dìu maria vào hang đá)
* Hát : RU CON À ƠI . . . . . . . .
. . .
Người
dẫn : Ngoài trời, đêm mùa Đông vẫn giá buốt,
tiếng gió rít từng hồi, vô vàn tinh tú lấp lành giữa bầu trời đen tối. Maria đã
đến ngày sinh. . . . . . . cả thế gian
vẫn say giấc nồng mệt mỏi, trên cánh đồng Bê-lem, các mục đồng gối đầu lên nhau
chìm vào giấc mơ mong đợi, . . . và kìa
ánh sáng chiếu rọi, vang lên tiếng ca của các Thiên Thần kêu gọi, báo tin cho
loài người :Đấng Thiên sai hạ giới.
Người
dẫn : Con Thiên Chúa xuống thế làm người để
con người được làm con Thiên Chúa. Xin chúc tụng tình yêu vô biên của Thiên
Chúa .
( Đèn sao chổi được
bật sáng – múa Thiên Thần loan báo mục đồng : Glo-ri-a . . . Cảnh các mục đồng đang ngủ mê, khi nghe Thiên Thần
hát, tất cả mục đồng bật dậy, đi tìm trẻ bé mới sinh.)
Người
dẫn : Họ là những người hạnh phúc nhất, vì là
những người đầu tiên được báo tin và là người đầu tiên đến viếng thăm, ngắm
nhìn Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng sinh làm Người.
Thiên
Chúa uy quyền giàu sang lại chọn nơi sinh ra trong cảnh khó nghèo, và làm bạn
với những ai vất vả long đong , quả thật “ Phúc cho anh em là những người nghèo
khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em”.
Thiên
Thần : Hát : KÌA TRÔNG HUY HOÀNG VÌ SAO
(Một Thiên Thần nhỏ
đứng diễn tả bài hát – các mục đồng đang ngủ chợt tỉnh giấc , ngơ ngác, định vị
và cùng nhau vui mừng tìm đến nơi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa mới sinh ra )
Người
dẫn : (
Phút thinh lặng ) Mời cộng đoàn đứng
NGÔI . . . HAI . . THIÊN . . CHÚA . .
GIÁNG . . THẾ . . LÀM . . NGƯỜI
. . .)
Chúng con xin cúi
đầu thờ lạy Chúa Hài Nhi, cúi đầu thờ lạy Tình Yêu Giáng Trần. Chúa đến để dạy
chúng con biết là chúng con có một người Cha rất mực yêu thương chúng con, và
đời sống làm người của chúng con thật cao quý, vì chính Chúa đã từ trời xuống
mặc áo xác phàm chúng con. Xin cho chúng con biết sống ngoan hiền và trung
thành với Chúa, xứng đáng là những người con của Chúa.
(Các nhân vật tiến ra phía trước, Giu-se và
Maria sẽ trao Chúa Hài Đồng cho cha chủ tế, và cùng với Ngài tiến đến hang đá,
đặt Chúa Hài Đồng vào máng cỏ)
Thánh lễ bắt đầu.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)